(Phần 3 - cuối) Truyện ngắn “The Monkey's Paw” - W. W. Jacobs



Văn học phương Tây tự hào có vô số tác phẩm kinh điển được giảng dạy rộng rãi trong các trường trung học phổ thông ở Mỹ. Mỗi tuần, chúng ta sẽ cùng nhau đắm chìm vào thế giới của những truyện ngắn kinh điển, đầu tiên là đọc cả bản tiếng Anh lẫn tiếng Việt để cảm nhận trọn vẹn vẻ đẹp ngôn ngữ của tác phẩm. Sau đó, ở số tiếp theo, chúng ta sẽ đi sâu vào phân tích ý nghĩa ẩn chứa bên trong.

__________________________

Câu chuyện của tuần này là "The Monkey's Paw" hay "Bàn tay khỉ" của tác giả W. W. Jacobs. Đây là một câu chuyện kinh dị, có phần dài hơn những chuyện của các số trước, nên chúng ta sẽ chia thành 3 phần. 

The Monkey's Paw (Part 3)

W. W. Jacobs

In the huge new cemetery, some two miles distant, the old people buried their dead, and came back to the house steeped in shadows and silence. It was all over so quickly that at first they could hardly realize it, and remained in a state of expectation as though of something else to happen - something else which was to lighten this load, too heavy for old hearts to bear.

But the days passed, and expectations gave way to resignation - the hopeless resignation of the old, sometimes mis-called apathy. Sometimes they hardly exchanged a word, for now they had nothing to talk about, and their days were long to weariness.

It was about a week after that the old man, waking suddenly in the night, stretched out his hand and found himself alone. The room was in darkness, and the sound of subdued weeping came from the window. He raised himself in bed and listened.

"Come back," he said tenderly. "You will be cold."

"It is colder for my son," said the old woman, and wept afresh.

The sounds of her sobs died away on his ears. The bed was warm, and his eyes heavy with sleep. He dozed fitfully, and then slept until a sudden wild cry from his wife awoke him with a start.

"THE PAW!" she cried wildly. "THE MONKEY'S PAW!"

He started up in alarm. "Where? Where is it? What’s the matter?"

She came stumbling across the room toward him. "I want it," she said quietly. "You've not destroyed it?"

"It's in the parlour, on the bracket," he replied, marveling. "Why?"

She cried and laughed together, and bending over, kissed his cheek.

"I only just thought of it," she said hysterically. "Why didn't I think of it before? Why didn't you think of it?"

"Think of what?" he questioned.

"The other two wishes," she replied rapidly. "We've only had one."

"Was that not enough?" he demanded fiercely.

"No," she cried triumphantly; "We'll have one more. Go down and get it quickly, and wish our boy alive again."

The man sat in bed and flung the bedclothes from his quaking limbs."Good God, you are mad!" he cried aghast. "Get it," she panted; "get it quickly, and wish - Oh my boy, my boy!"

Her husband struck a match and lit the candle. "Get back to bed," he said unsteadily. "You don't know what you are saying."

"We had the first wish granted," said the old woman, feverishly; "why not the second?"

"A coincidence," stammered the old man.

"Go get it and wish," cried his wife, quivering with excitement.

The old man turned and regarded her, and his voice shook. "He has been dead ten days, and besides he - I would not tell you else, but - I could only recognize him by his clothing. If he was too terrible for you to see then, how now?"

"Bring him back," cried the old woman, and dragged him towards the door. "Do you think I fear the child I have nursed?"

He went down in the darkness, and felt his way to the parlour, and then to the mantlepiece. The talisman was in its place, and a horrible fear that the unspoken wish might bring his mutilated son before him where he could escape from the room seized up on him, and he caught his breath as he found that he had lost the direction of the door. His brow cold with sweat, he felt his way round the table, and groped along the wall until he found himself in the small passage with the unwholesome thing in his hand.

Even his wife's face seemed to change as he entered the room. It was white and expectant, and to his fears seemed to have an unnatural look upon it. He was afraid of her.

"WISH!" she cried in a strong voice.

"It is foolish and wicked," he faltered.

"WISH!" repeated his wife.

He raised his hand. "I wish my son was alive again."

The talisman fell to the floor, and he regarded it fearfully. Then he sank trembling into a chair as the old woman, with burning eyes, walked to the window and raised the blind.

He sat until he was chilled with the cold, glancing occasionally at the figure of the old woman peering through the window. The candle-end, which had burned below the rim of the china candlestick, was throwing pulsating shadows on the ceiling and walls, until with a flicker larger than the rest, it expired. The old man, with an unspeakable sense of relief at the failure of the talisman, crept back back to his bed, and a minute afterward the old woman came silently and apathetically beside him.

Neither spoke, but sat silently listening to the ticking of the clock. A stair creaked, and a squeaky mouse scurried noisily through the wall. The darkness was oppressive, and after lying for some time screwing up his courage, he took the box of matches, and striking one, went downstairs for a candle.

At the foot of the stairs the match went out, and he paused to strike another; and at the same moment a knock came so quiet and stealthy as to be scarcely audible, sounded on the front door.

The matches fell from his hand and spilled in the passage. He stood motionless, his breath suspended until the knock was repeated. Then he turned and fled swiftly back to his room, and closed the door behind him. A third knock sounded through the house.

"WHAT’S THAT?" cried the old woman, starting up.

"A rat," said the old man in shaking tones - "a rat. It passed me on the stairs."

His wife sat up in bed listening. A loud knock resounded through the house.

"It's Herbert!"

She ran to the door, but her husband was before her, and catching her by the arm, held her tightly.

"What are you going to do?" he whispered hoarsely.

"It's my boy; it's Herbert!" she cried, struggling mechanically. "I forgot it was two miles away. What are you holding me for? Let go. I must open the door."

"For God's sake don't let it in," cried the old man, trembling.

"You're afraid of your own son," she cried, struggling. "Let me go. I'm coming, Herbert; I'm coming."

There was another knock, and another. The old woman with a sudden wrench broke free and ran from the room. Her husband followed to the landing, and called after her appealingly as she hurried downstairs. He heard the chain rattle back and the bolt drawn slowly and stiffly from the socket. Then the old woman’s voice, strained and panting.

"The bolt," she cried loudly. "Come down. I can't reach it."

But her husband was on his hands and knees groping wildly on the floor in search of the paw. If only he could find it before the thing outside got in. A perfect fusillade of knocks reverberated through the house, and he heard the scraping of a chair as his wife put it down in the passage against the door. He heard the creaking of the bolt as it came slowly back, and at the same moment he found the monkey's paw, and frantically breathed his third and last wish.

The knocking ceased suddenly, although the echoes of it were still in the house. He heard the chair drawn back, and the door opened. A cold wind rushed up the staircase, and a long loud wail of disappointment and misery from his wife gave him the courage to run down to her side, and then to the gate beyond. The street lamp flickering opposite shone on a quiet and deserted road.



Bàn tay khỉ (Phần 3)

Tác giả W. W. Jacobs

Tại một nghĩa trang lớn mới xây cách đó chừng hai dặm, hai vợ chồng già chôn cất đứa con trai của mình và quay về ngôi nhà tối tăm và cô quạnh. Mọi chuyện chấm dứt quá nhanh đến độ họ không kịp hiểu được chuyện gì đang diễn ra và họ vẫn còn kỳ vọng một chuyện nào khác xảy ra - một chuyện nào đó mà có thể trút bớt cái gánh nặng đang đè lên hai trái tim già nua. Ngày qua ngày, kỳ vọng đó dần nhường chỗ cho nỗi cam chịu – một sự cam chịu vô vọng của người già, mà đôi khi người ta tưởng nhầm là sự thờ ơ lãnh cảm. Đôi khi, họ hầu như không nói với nhau lời nào, vì rằng giờ đây chẳng có gì để nói, và ngày dài lê thê cứ trôi qua trong u sầu.

Khoảng một tuần sau cái chết của người con, một đêm nọ ông White giật mình thức giấc lúc giữa đêm, ông với tay sang phía vợ và chẳng thấy bà đâu cả. Căn phòng vẫn tối mù, và ông nghe loáng thoáng đâu đó có tiếng than khóc bên cửa sổ. Ông ngồi nhỏm dậy và lắng nghe.

“Quay về giường đi,” ông dịu dàng nói. “Bà sẽ bị cảm mất.”

“Con tôi còn đang lạnh lẽo hơn,” bà White đáp và lại bật khóc.

Tiếng khóc nức nở của bà dần chìm đi bên tai ông. Chiếc giường ấm áp và đôi mắt ông nặng trĩu vì cơn buồn ngủ ập đến. Ông chìm trong giấc ngủ chập chờn, rồi ngủ thiếp đi cho đến khi bà vợ đột ngột thét lên khiến ông tỉnh giấc.

“Bàn tay khỉ!” bà kêu thét lên. “Bàn tay khỉ!”

Ông hoảng hốt bật dậy. "Đâu? Nó đâu? Có chuyện gì?" Bà loạng choạng băng ngang phòng đến bên ông. "Tôi cần nó," bà khẽ nói. "Ông chưa hủy nó đi chứ?”

"Nó ở trên kệ trong phòng khách" ông White ngạc nhiên nói. “Để làm gì?”

Bà vừa cười vừa khóc, và cúi xuống, hôn lên má ông.

"Tôi mới vừa nghĩ ra nó," bà nói lắp bắp. "Tại sao tới bây giờ tôi mới nghĩ ra nhỉ? Tại sao ông không nghĩ đến nó?"

“Nghĩ đến cái gì chứ?” ông hỏi.

“Hai điều ước kia,” bà vội đáp. “Chúng ta mới ước một điều thôi.”

“Thế vẫn chưa đủ hay sao?” ông gắt gỏng đáp.

“Chưa đâu,” bà đắc chí đáp; “chúng ta sẽ ước một điều nữa. Ông xuống dưới nhà lấy nó lên ngay đi, và ước con trai chúng ta sống lại.”

Ông White ngồi bật dậy với vẻ kinh hoàng. “Lạy Chúa lòng lành, bà điên mất rồi!” ông thốt lên.

“Lấy nó đi,” bà giục, “nhanh lên, và ước mau đi – Ôi con tôi, con trai tôi!”

Người chồng quẹt một que diêm và châm nến. "Trở lại giường ngủ đi," ông run rẩy đáp. “Bà không biết bản thân mình đang nói gì đâu.”

"Chúng ta đã được toại nguyện điều ước đầu tiên," bà vợ vội nói; "tại sao lại không thử điều ước thứ hai?"

“Chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên,” ông lắp bắp.

“Lấy nó và ước nhanh đi,” bà nài xin và đẩy ông ra phía cửa.

Ông White đi xuống nhà trong bóng tối và dò dẫm tìm đường ra phòng khách rồi tới bên mặt bếp lửa. Bàn tay khỉ vẫn ở nguyên tại chỗ, và nỗi sợ tràn ngập trong ông - ông sợ rằng điều ước ấy sẽ đem người con thân xác chẳng còn nguyên vẹn trở lại trước mặt trước khi ông kịp chạy ra khỏi phòng; và khi nhận thấy không tìm thấy cửa ra, ông cố trấn an mình. Trán ông lạnh toát mồ hôi và ông lần mò đi quanh bàn và men theo tường cho đến khi ra được hành lang nhỏ với thứ đáng nguyền rủa ấy trên tay.

Gương mặt bà vợ dường như biến sắc khi ông bước vào phòng. Sắc mặc vừa tái nhợt lại vừa hăm hở, và ông cảm thấy sợ hãi khi nhìn thấy cái nét mặt khác thường đó của bà. Ông sợ bà.

“Ước đi!” bà rít lên.

“Thế này là dại dột, điên rồ,” ông ấp úng.

“Ước ngay đi!” bà vợ lặp lại.

Ông giơ tay lên. “Tôi ước con trai tôi sống lại.”

Bàn tay khỉ rơi xuống sàn nhà, và ông nhìn nó với vẻ hoảng sợ. Rồi ông run rẩy quăng mình xuống ghế khi bà vợ với ánh mắt háo hức đi đến cửa sổ và vén rèm lên.

Ông ngồi đó cho đến khi rùng mình vì lạnh, thỉnh thoảng ông liếc nhìn sang bà vợ đang trông ngóng ra cửa sổ. Ngọn nến cháy gần hết bên dưới mép giá đỡ bằng sứ, hắt những cái bóng nhập nhoạng lên trần nhà và bốn bức tường, cho đến khi nó cháy sáng rực hơn bao giờ hết rồi phụt tắt. Với cảm giác nhẹ nhõm khi cho rằng bàn tay khỉ không còn linh nghiệm, ông quay lại giường và một hai phút sau bà vợ lặng lẽ đến bên và thờ ơ nằm xuống bên cạnh.

Cả hai đều không nói với ai lời nào, nhưng họ nằm đó trong im lặng, lắng nghe tiếng đồng hồ tích tắc. Cầu thang cót két, và một con chuột vụt chạy qua bức tường kêu chít chít. Bóng tối tràn ngập, và sau khi thu hết can đảm, ông cầm một hộp diêm, quẹt một que và đi xuống cầu thang lấy thêm nến.

Khi xuống đến cầu thang thì cũng là lúc que diêm vừa tắt. Ông dừng lại để quẹt một que khác và ngay lúc ấy, có tiếng gõ cửa vang lên. Một tiếng gõ cửa khẽ khàng, len lén đến mức gần như không nghe thấy được, vang lên từ cửa chính.

Hộp diêm rơi từ trên tay ông xuống đất. Ông đứng đó bất động, nín thở cho đến khi tiếng gõ cửa lại vang lên. Rồi ông quay đầu, chạy nhanh trốn về phòng và đóng cánh cửa phòng lại sau lưng ông. Tiếng gõ cửa thứ ba vang dội khắp căn nhà.

“Sao thế?” bà vợ giật mình hỏi.

“Chuột,” ông đáp với vẻ run sợ, “có con chuột chạy qua chân tôi ở cầu thang.”

Bà vợ ngồi bật dậy trên giường lắng nghe. Một tiếng gõ cửa lớn lại vang khắp cả căn nhà.

“Là Herbert!” bà kêu lên. “Herbert về đấy!”

Bà chạy ra đến cửa, nhưng ông ngăn lại, chộp lấy cánh tay và ôm bà thật chặt.

“Bà định làm gì?” ông thì thầm bằng giọng khản đặc.

“Là con tôi đấy, là Herbert!” bà kêu lên, cố vùng vẫy để thoát ra. “Tôi quên mất nghĩa trang cách nhà tận hai dặm. Sao ông cản tôi? Buông ra. Tôi phải mở cửa.”

“Vì Chúa, đừng cho thứ ấy vào trong nhà,” ông run rẩy thét lên.

“Ông sợ chính con trai mình sao,” bà vừa kêu vừa vùng vẫy. “Buông tôi ra. Mẹ đến đây Herbert; mẹ đến đây.”

Một tiếng gõ cửa khác vang lên rồi một tiếng nữa nối tiếp sau đó. Bà đột ngột giật mạnh thoát ra và chạy ra khỏi phòng. Ông chạy ra tới cầu thang và gọi theo giọng khẩn nài khi bà lao xuống cầu thang. Ông nghe thấy tiếng dây xích lách cách và tiếng chốt cửa dưới rít chầm chậm bật ra khỏi hốc cửa. Và tiếng bà vang lên hổn hển.

“Cái chốt,” bà gào lên. “Xuống đây ngay. Tôi không với được tới cái chốt.”

Nhưng bấy giờ ông đang nằm bò ra sàn, hai tay quơ quào cuồng loạn để tìm bàn tay khỉ. Ông chỉ mong tìm thấy nó trước khi cái thứ bên ngoài kia vào được. Tiếng đập cửa ầm ầm vang dội khắp căn nhà, và ông nghe tiếng bà vợ kéo lê một chiếc ghế đặt ngay lối đi sát cánh cửa. Ông nghe tiếng chốt cửa khi nó từ từ kéo lùi lại, và ngay lúc đó, ông tìm thấy bàn tay khỉ, và ông hốt hoảng thốt lên điều ước thứ ba và cũng là điều ước cuối cùng.

Tiếng gõ cửa đột ngột im bặt, mặc dù tiếng vọng của nó vẫn còn lanh lảnh vang khắp trong nhà. Ông nghe thấy tiếng ghế được kéo lại và cánh cửa mở ra. Một cơn gió lạnh lùa vào cầu thang và rồi bà vợ cất lên tiếng than khóc dai dẳng đau khổ và tuyệt vọng, khiến ông lấy hết can đảm chạy xuống đến bên bà, rồi ông chạy đến cánh cổng phía ngoài. Ngọn đèn đường đối diện phả ánh sáng lập loè xuống con đường vắng lặng không một bóng người.



Comments

Popular posts from this blog

Vui hát Giáng sinh 2024!

Tập đọc đoạn văn ngắn tiếng Trung HSK1 (Bài 1)

Vui hát Giáng Sinh!