Truyện ngắn “The Open Window” - H.H. Munro (SAKI)
Văn học phương Tây tự hào có vô số tác phẩm kinh điển được giảng dạy rộng rãi trong các trường trung học phổ thông ở Mỹ. Mỗi tuần, chúng ta sẽ cùng nhau đắm chìm vào thế giới của những truyện ngắn kinh điển, đầu tiên là đọc cả bản tiếng Anh lẫn tiếng Việt để cảm nhận trọn vẹn vẻ đẹp ngôn ngữ của tác phẩm. Sau đó, ở số tiếp theo, chúng ta sẽ đi sâu vào phân tích ý nghĩa ẩn chứa bên trong.
__________________________
Câu chuyện của tuần này là "The Open Window" hay "Khung cửa mở" của tác giả H.H. Munro (SAKI).
The Open Window
By H.H. Munro (SAKI)
"My aunt will be down presently, Mr. Nuttel," said a very self-possessed young lady of fifteen; "in the meantime you must try and put up with me."
Framton Nuttel endeavored to say the correct thing which should duly flatter the niece of the moment without unduly discounting the aunt that was to come. Privately he doubted more than ever whether these formal visits on a succession of total strangers would do much towards helping the nerve cure which he was supposed to be undergoing
"I know how it will be," his sister had said when he was preparing to migrate to this rural retreat; "you will bury yourself down there and not speak to a living soul, and your nerves will be worse than ever from moping. I shall just give you letters of introduction to all the people I know there. Some of them, as far as I can remember, were quite nice."
Framton wondered whether Mrs. Sappleton, the lady to whom he was presenting one of the letters of introduction came into the nice division.
"Do you know many of the people around here?" asked the niece, when she judged that they had had sufficient silent communion.
"Hardly a soul," said Framton. "My sister was staying here, at the rectory, you know, some four years ago, and she gave me letters of introduction to some of the people here."
He made the last statement in a tone of distinct regret.
"Then you know practically nothing about my aunt?" pursued the self-possessed young lady.
"Only her name and address," admitted the caller. He was wondering whether Mrs. Sappleton was in the married or widowed state. An undefinable something about the room seemed to suggest masculine habitation.
"Her great tragedy happened just three years ago," said the child; "that would be since your sister's time."
"Her tragedy?" asked Framton; somehow in this restful country spot tragedies seemed out of place.
"You may wonder why we keep that window wide open on an October afternoon," said the niece, indicating a large French window that opened onto a lawn.
"It is quite warm for the time of the year," said Framton; "but has that window got anything to do with the tragedy?"
"Out through that window, three years ago to this day, her husband and her two young brothers went off for their day's shooting. They never came back. In crossing the moor to their favorite snipe-shooting ground they were all three engulfed in a treacherous piece of bog. It had been that dreadful wet summer, you know, and places that were safe in other years gave way suddenly without warning. Their bodies were never recovered. That was the dreadful part of it." Here the child's voice lost its self-possessed note and became falteringly human. "Poor aunt always thinks that they will come back someday, they and the little brown spaniel that was lost with them, and walk in at that window just as they used to do. That is why the window is kept open every evening till it is quite dusk. Poor dear aunt, she has often told me how they went out, her husband with his white waterproof coat over his arm, and Ronnie, her youngest brother, singing 'Bertie, why do you bound?' as he always did to tease her, because she said it got on her nerves. Do you know, sometimes on still, quiet evenings like this, I almost get a creepy feeling that they will all walk in through that window--"
She broke off with a little shudder. It was a relief to Framton when the aunt bustled into the room with a whirl of apologies for being late in making her appearance.
"I hope Vera has been amusing you?" she said.
"She has been very interesting," said Framton.
"I hope you don't mind the open window," said Mrs. Sappleton briskly; "my husband and brothers will be home directly from shooting, and they always come in this way. They've been out for snipe in the marshes today, so they'll make a fine mess over my poor carpets. So like you menfolk, isn't it?"
She rattled on cheerfully about the shooting and the scarcity of birds, and the prospects for ducks in the winter. To Framton it was all purely horrible. He made a desperate but only partially successful effort to turn the talk on to a less ghastly topic, he was conscious that his hostess was giving him only a fragment of her attention, and her eyes were constantly straying past him to the open window and the lawn beyond. It was certainly an unfortunate coincidence that he should have paid his visit on this tragic anniversary.
"The doctors agree in ordering me complete rest, an absence of mental excitement, and avoidance of anything in the nature of violent physical exercise," announced Framton, who labored under the tolerably widespread delusion that total strangers and chance acquaintances are hungry for the least detail of one's ailments and infirmities, their cause and cure. "On the matter of diet they are not so much in agreement," he continued.
"No?" said Mrs. Sappleton, in a voice which only replaced a yawn at the last moment. Then she suddenly brightened into alert attention--but not to what Framton was saying.
"Here they are at last!" she cried. "Just in time for tea, and don't they look as if they were muddy up to the eyes!"
Framton shivered slightly and turned towards the niece with a look intended to convey sympathetic comprehension. The child was staring out through the open window with a dazed horror in her eyes. In a chill shock of nameless fear Framton swung round in his seat and looked in the same direction.
In the deepening twilight three figures were walking across the lawn towards the window, they all carried guns under their arms, and one of them was additionally burdened with a white coat hung over his shoulders. A tired brown spaniel kept close at their heels. Noiselessly they neared the house, and then a hoarse young voice chanted out of the dusk: "I said, Bertie, why do you bound?"
Framton grabbed wildly at his stick and hat; the hall door, the gravel drive, and the front gate were dimly noted stages in his headlong retreat. A cyclist coming along the road had to run into the hedge to avoid an imminent collision.
"Here we are, my dear," said the bearer of the white mackintosh, coming in through the window, "fairly muddy, but most of it's dry. Who was that who bolted out as we came up?"
"A most extraordinary man, a Mr. Nuttel," said Mrs. Sappleton; "could only talk about his illnesses, and dashed off without a word of goodbye or apology when you arrived. One would think he had seen a ghost."
"I expect it was the spaniel," said the niece calmly; "he told me he had a horror of dogs. He was once hunted into a cemetery somewhere on the banks of the Ganges by a pack of pariah dogs, and had to spend the night in a newly dug grave with the creatures snarling and grinning and foaming just above him. Enough to make anyone lose their nerve."
Romance at short notice was her speciality.
Khung cửa mở
Tác giả H.H. Munro (SAKI)
"Cô tôi sẽ xuống ngay thôi, thưa ông Nuttel”, cô thiếu nữ tuổi mười lăm nói với giọng rất tự tin; “trong khi chờ đợi, xin ông vui lòng cho tôi tiếp chuyện”.
Framton Nuttel cố gắng nói điều gì đấy cho phải lẽ để làm vui lòng cô cháu mà không tỏ ra thiếu tôn trọng người cô sắp xuất hiện. Trong thâm tâm, hơn lúc nào hết, chàng thấy lo ngại không biết những cuộc viếng thăm xã giao những người hoàn toàn xa lạ thế này có giúp được gì cho việc điều trị căn bệnh tâm thần mà chàng đang thực hiện đây không.
“Chị biết mọi chuyện sẽ xảy ra thế nào,” chị của chàng đã nói như thế khi chàng chuẩn bị về tỉnh dưỡng nơi thôn dã vắng vẻ này; “em sẽ thui thủi một mình ở đấy, không tiếp xúc với ai, và trạng thái thần kinh của em sẽ tệ hơn vì buồn phiền. Chị sẽ viết thư giới thiệu em với tất cả những người chị quen biết ở đấy. Chị nhớ là vài người trong số đó thực sự rất dễ thương.”
Framton không hiểu bà Sappleton, người mà chàng sắp đưa một trong số thư giới thiệu, có thuộc nhóm người dễ thương đó không.
Khi thấy giữa hai người đã có sự thông cảm lặng lẽ vừa đủ rồi, cô cháu gái liền hỏi: “Ông có quen biết nhiều người ở quanh đây không?”
“Hầu như không quen biết ai,” Framton lên tiếng. “Chị tôi khoảng bốn năm trước có ở đây, tại nhà ông mục sư, và chị viết thư giới thiệu tôi với vài người nơi này.”
Chàng nói ý cuối cùng với một giọng nuối tiếc dễ nhận thấy.
“Vậy là gần như ông không biết gì về bà cô của tôi phải không ạ?”
Cô gái tự tin tiếp tục hỏi.
“Chỉ biết tên và địa chỉ thôi,” người khách thú nhận. Chàng tự hỏi không biết bà Sappleton có chồng hay góa phụ. Có cái gì đấy không rõ ràng lắm ở trong phòng hình như gợi cho thấy nhà này có sự hiện diện của đàn ông.
“Một thảm kịch đã xảy ra với cô tôi cách đây đúng ba năm,” cô gái nói, “có thể vào thời gian chị của ông còn ở đây.”
“Thảm kịch hả?” Framton hỏi; dẫu sao nơi vùng quê yên tĩnh này thảm kịch có vẻ khó xảy ra.
“Ông có thể ngạc nhiên tại sao chúng tôi lại để mở cái cửa sổ kia vào một buổi chiều tháng mười như thế này,” cô gái vừa nói vừa chỉ cánh cửa rộng kiểu Pháp thông ra sân cỏ bên ngoài.
“Thời gian này trong năm trời vẫn ấm,”, Framton nói; “mà cánh cửa kia thì có liên quan gì đến thảm kịch chứ?”
“Ngày này cách đây ba năm, chồng và hai người cậu của tôi đã phóng ra qua cái cửa sổ đó để đi săn. Và họ đã không bao giờ trở về. Khi băng qua cánh đồng hoang để đến nơi săn chim dẽ quen thuộc, cả ba người bị nuốt chửng vào một bãi lầy nguy hiểm. Mùa hè ẩm ướt khủng khiếp năm đó, như ông biết đó, có những chỗ mọi năm thì an toàn, nay bỗng sụt lở mà không ai ngờ được. Thi thể của họ không bao giờ được tìm thấy. Đó là điều khủng khiếp nhất của câu chuyện.” Đến đây giọng cô gái mất đi vẻ tự tin mà trở nên ngập ngừng. “Người cô tội nghiệp của tôi vẫn tin là một ngày kia họ sẽ trở về, ba người và cả con chó cùng biến mất với họ, rồi sẽ vào bằng lối cửa sổ như họ vẫn thường làm. Đấy là lý do tại sao cửa sổ cứ để mở như thế mỗi chiều cho đến khi trời tối hẳn. Bà cô khốn khổ của tôi vẫn kể mãi cho tôi nghe chuyện họ ra đi như thế nào, chồng cô thì khoác chiếc áo choàng trắng trên tay, còn cậu em út Ronnie thì cứ hát “Bertie ơi, sao lại nhảy lên thế?” như để chọc ghẹo bà, vì bà nói hát như thế làm bà nhức đầu. Ông biết không, những buổi chiều im ắng, tĩnh lặng như thế này, tôi cảm thấy gần như sởn gai ốc khi tưởng tượng là họ sẽ đi vào qua cái cửa sổ kia.”
Cô gái khẽ rùng mình và đột nhiên ngừng lại. Còn Framton thì nhẹ nhõm hẳn khi bà cô vội vã bước vào phòng và rối rít xin lỗi vì đã chậm ra tiếp khách.
“Tôi hy vọng là cháu Vera đã nói chuyện vui vẻ với ông”, bà nói.
“Cô bé thật thú vị”, chàng đáp.
“Mong là ông không bận tâm vì cánh cửa sổ để mở,” bà Sappleton nói nhanh; “nhà tôi và mấy cậu em sắp đi săn về và họ vẫn thường vào nhà bằng lối đó. Hôm nay họ đi săn chim dẽ ở đám đầm lầy và thế nào rồi cũng sẽ làm bẩn những tấm thảm của tôi. Đàn ông các ông vẫn thế, phải vậy không?”
Bà vui vẻ tiếp tục huyên thuyên về chuyện đi săn, về chuyện hiếm hoi chim chóc bây giờ và hy vọng sẽ có vịt trời vào mùa đông. Với Framton câu chuyện thực sự khủng khiếp. Chàng cố gắng lái câu chuyện sang một đề tài khác bớt ghê rợn hơn nhưng xem chừng không thành công mấy. Chàng cảm thấy chủ nhà chẳng quan tâm lắm đến mình, mắt thì cứ đăm đăm nhìn về hướng cửa sổ và sân cỏ bên ngoài. Hẳn là một sự trùng hợp ngẫu nhiên không may vì chàng đã viếng thăm vào đúng ngày kỷ niệm tấn thảm kịch.
“Các bác sĩ đều khuyên tôi tuyệt đối nghỉ ngơi, không để kích động tinh thần và tránh mọi vận động cơ thể mạnh,” Framton cho biết. Vì, như nhiều người, chàng tưởng lầm rằng những người hoàn toàn xa lạ và những người mới tình cờ gặp gỡ thường khao khát được biết những chi tiết nhỏ nhặt về ốm đau, bệnh tật của người khác, cùng nguyên nhân và cách điều trị. “Riêng về chế độ ăn uống thì các bác sĩ chưa đồng ý với nhau lắm”, chàng nói tiếp.
“Vậy sao?”, bà Sappleton nói, bằng một giọng chỉ như để thay thế cho cái ngáp sắp tới. Rồi bỗng nhiên mặt bà sáng lên, tỉnh táo chú ý - nhưng không phải tới câu Framton đang nói.
“Có thế chứ, họ về kia rồi!”, bà kêu lên. “Vừa đúng vào giờ uống trà, và người nào cũng lấm bùn bê bết thế kia!”
Framton khẽ rùng mình, quay sang nhìn cô cháu ngụ ý tỏ sự thông cảm. Nhưng cô gái đang chăm chú nhìn qua cánh cửa sổ để mở với đôi mắt ngạc nhiên hoảng sợ. Trong cơn ớn lạnh vì một nỗi sợ khó gọi tên, Framton cứ xoay tròn trên ghế ngồi, đưa mắt nhìn theo cùng hướng đó.
Trong ánh chiều tà nhá nhem, ba bóng người đang vượt qua sân cỏ; cả ba đều quàng súng, một trong ba người khoác chiếc áo choàng trắng qua vai. Một con chó săn nhỏ màu nâu mệt nhọc chạy theo sau gót họ. Họ lặng lẽ đến gần ngôi nhà, và một giọng hát trẻ trung khàn khàn cất lên trong bóng tối: “Bertie ơi, sao lại nhảy lên thế?”
Framton quờ quạng vớ lấy chiếc gậy và cái mũ. Cửa ra vào, lối đi rải sỏi và chiếc cổng chính là những gì chàng mơ hồ nhận biết trên đường hấp tấp tháo chạy. Một người đi xe đạp phải phóng vào hàng rào để tránh va chạm đột ngột.
“Bọn anh về đây rồi, em ơi,” người đàn ông khoác áo choàng nhảy vào cửa sổ lên tiếng; “bùn lầy lấm lem, nhưng cũng gần khô rồi. Người nào vừa phóng ra khi bọn anh vào vậy?”
“Một anh chàng khá kỳ khôi, tên Nuttel gì đó,” bà Sappleton trả lời, “anh ta chỉ nói về bệnh tật của mình rồi vụt bỏ chạy mà chẳng thèm nói lời từ giã hay xin lỗi gì hết khi anh về. Làm như anh ta đã nhìn thấy ma hiện hình vậy.”
“Cháu đoán có thể vì con chó,” cô cháu nói tỉnh bơ; “ông ấy nói với cháu rằng ông khiếp sợ chó. Có một lần, trong một nghĩa địa ở bên bờ sông Hằng, ông ta bị một bầy chó hoang lùng sục, cuối cùng phải ngủ cả đêm hôm đó trong một cái huyệt mới đào, trong khi bên trên cả bầy chó gầm gừ, nhe răng, sùi bọt mép. Chuyện như thế ai mà không hoảng loạn.”
Bịa chuyện mau lẹ như thế là biệt tài của cô gái.
Comments
Post a Comment