Helen Keller - Một cuộc đời rực rỡ

 Huyền thoại về nữ nhà văn khiếm thị, khiếm thính Helen Keller


Khi chưa đầy 2 tuổi, Helen Keller ốm nặng và sau đó mất thị giác cùng thính giác. Sự tức giận trước số phận nghiệt ngã đã thúc đẩy người phụ nữ Mỹ “lội ngược dòng” với một cuộc đời hoạt động xã hội phi thường.




Năm gần 7 tuổi, cô bé Helen đã trải qua một khoảnh khắc kinh hãi nhưng chính khoảnh khắc đó đã giải thoát cho cô. Hôm ấy, cô giáo Anne Sullivan cho dòng nước lạnh buốt từ vòi nước chảy xuống tay Helen và đồng thời dùng ngón tay viết các chữ cái của từ “nước” (W-A-T-E-R) lên lòng bàn tay cô bé. Sau này Helen kể lại, trong giây phút đó, một thế giới mới đã mở ra với cô, một thế giới mà trong đó mỗi đồ vật đều có một cái tên, người ta có thể gọi được.

Hôm đó, cô bé đã hồi hộp cố gắng bắt chước các động tác của cô giáo. Cô bé ngồi xuống đất, dùng tay chạm vào đất và hỏi khái niệm đó. Đến cuối ngày, cô bé đã học được nhiều từ ngữ bằng “chữ cái ngón tay”, trong đó có các từ “cô giáo”, “mẹ” và “bố”.

Đó là điểm khởi đầu của một con đường có một không hai, đưa người phụ nữ khiếm thị và khiếm thính này trở thành một trong những nữ nhà văn nổi tiếng nhất nước Mỹ. Helen còn là một nhà hoạt động chính trị tích cực cho những người người khiếm thị và khiếm thính, một nữ chiến sĩ đấu tranh cho quyền bình đẳng của phụ nữ và chống chủ nghĩa phát xít.




Cơn giận dữ của đứa trẻ “đi từ ánh sáng vào bóng tối”


Helen Keller sinh năm 1880 tại Tuscumbia, bang Alabama, Mỹ. Bố cô là đại úy trong quân đội liên bang, còn ông nội cô là người Thụy Sĩ, đến sinh cơ lập nghiệp ở Maryland.

Gia đình Helen là một gia đình khá giả, có đầu bếp riêng và người giúp việc trong nhà. Helen là một cô bé tươi tắn, khỏe mạnh và hiếu động. Khi Helen mới 19 tháng tuổi, cô đột nhiên bị sốt cao. Bác sĩ chẩn đoán cô bị viêm màng não và không biết liệu cô bé có qua khỏi không. Ít ngày sau, cô bé hạ sốt và cả nhà đã rất mừng nhưng không ai lường trước được rằng, từ nay cô bé sẽ không bao giờ nhìn và nghe được nữa.


“Thật đột ngột đến mức khủng khiếp, tôi đi từ ánh sáng vào bóng tối và bị biến thành một bóng ma. Đối với tôi, tất cả trở nên rời rạc, không liên kết với nhau”, Helen đã mô tả sự biến đổi kinh khủng đến cùng cực đó trong cuộc đời. Cô bé tức giận và thường lên những cơn giận dữ. Helen biết mình muốn gì nhưng không thể nói lên được: “Tôi mấp máy môi và khua tay, khua chân nhưng vô vọng, vì không ai hiểu nổi. Điều đó làm tôi nổi điên, giậm chân đùng đùng, cho đến khi kiệt sức”, Helen nhớ lại.



Người phụ nữ khiếm thị, khiếm thính đầu tiên tốt nghiệp đại học Mỹ 

Mẹ của Helen là một người phụ nữ rất hiểu biết. Bà liên hệ với Viện khiếm thị Perkins để thu xếp việc giúp đỡ con bà. Viện Perkins là nơi đào tạo giáo viên cho người khiếm thị. Tháng 3/1887 bố mẹ Helen nhận cô giáo Anne Sullivan 21 tuổi về nhà. Chính cô giáo này đã dạy Helen cách giao tiếp bằng chữ cái ngón tay. Ngoài ra Helen còn học chữ nổi Braille. Hai người phụ nữ này đã giữ quan hệ khăng khít với nhau cho đến khi cô giáo Sullivan qua đời năm 1936. Sau này, Helen Keller đã gọi ngày cô giáo của mình đến nhà là ngày quan trọng nhất trong cuộc đời cô.

Từ năm 1900, Helen Keller theo học tại trường Đại học Radcliffe. Bà còn học cả tiếng Đức, tiếng Pháp và năm 1904 tốt nghiệp với bằng cử nhân loại ưu. Helen Keller là người phụ nữ khiếm thị, khiếm thính đầu tiên tốt nghiệp đại học ở Mỹ. Trong suốt 4 năm học đại học, Helen đã để cô giáo Anne Sullivan “viết” nội dung từng bài giảng vào lòng bàn tay mình!

Ngay khi còn học đại học, Helen đã viết quyển sách đầu tiên của mình, đó là một quyển tự truyện. Sau đó cô đã sáng tác, công bố nhiều bài viết, bài nói và sách. Vì bản thân tác giả là người khiếm thị, khiếm thính, nên công chúng rất quan tâm đến những gì Helen nói.



Một cuộc đời rực rỡ


Helen Keller đã tích cực hoạt động trong suốt 40 năm cho một thế giới tốt đẹp hơn, công bằng hơn. Bà là một nhân vật cực kỳ quan trọng, vì bà đã làm thay đổi cách nhìn nhận của xã hội đối với người khuyết tật, đặc biệt đối với những người khiếm thị và khiếm thính.

Bà đã tận dụng sự chú ý của xã hội với chủ đề này, để xử lý những chủ đề chính trị và xã hội khác, như sự thiệt thòi của phụ nữ, kế hoạch hóa gia đình và những chủ đề khác nữa. Bộ lưu trữ về Helen Keller hiện nay lưu giữ hơn 470 bài nói và bài viết của bà.

Bằng những bài nói và bài viết đó bà đã đấu tranh cho quyền lợi của người da màu, nghiên cứu sự bùng phát của chủ nghĩa phát xít ở châu Âu, thậm chí sau này cả về năng lượng hạt nhân. Từ những năm 40 của thế kỷ trước, Helen đã đi rất nhiều nơi, thuyết trình tại gần 40 nước. Năm 1955, khi đã 75 tuổi, bà vẫn còn đến châu Á năm tháng để quảng bá cho những mục tiêu của mình.



Mỗi cuộc gặp gỡ, mỗi cuộc tiếp xúc của mình với những nhân vật nổi tiếng như đệ nhất phu nhân Eleanor Roosevelt hoặc nhà phát minh đã đưa điện thoại vào xã hội Alexander Graham Bell, nhà bác học lỗi lạc nhất thế kỷ 20 Albert Einstein hoặc nhà đấu tranh cho nữ quyền nổi tiếng Emma Goldman, Tổng thống John F. Kennedy hoặc ông tổ của tập đoàn xe hơi Ford Henry Ford vv, đều được Helen Keller tận dụng để thu hút sự chú ý đến những người khiếm thị.

Cuộc đời khác thường của bà đã được thể hiện trong nhiều bộ phim truyền hình và phim nhựa. Sự nỗ lực không nghỉ của bà đã được tôn vinh bằng nhiều bằng tiến sĩ danh dự, trong đó có bằng tiến sĩ danh dự của trường đại học Harvard. Ngày 01/6/1968, Helen Keller qua đời sau khi bị tai biến 8 năm trước. Việc bà được mai táng trong Washington National Cathedral (Thánh đường quốc gia Washington) thể hiện ảnh hưởng của bà lên xã hội Mỹ lớn lao như thế nào.

Helen Keller là tác giả của 12 cuốn sách và nhiều bài báo. Năm 1960, ở tuổi 80, bà còn xuất bản cuốn sách Light in My Darkness trước khi qua đời vào năm 1968, ở tuổi 88. Năm 1999, Helen Keller được tạp chí Time xếp vào danh sách 100 nhân vật tiêu biểu của thế kỷ 20. Theo bà, “Tính cách không thể phát triển một cách dễ dàng trong bình lặng. Chỉ qua thử thách và gian khổ, tâm hồn ta mới trở nên mạnh mẽ hơn, hoài bão hình thành, công danh thành tựu”.


“Chúng ta sẽ chẳng thực sự hạnh phúc cho đến khi làm cuộc đời của người khác trở nên tươi sáng hơn” – Đây chính là một bài học lớn mà Helen Keller đã để lại.

Helen Keller là minh chứng cho việc cuộc đời có nghĩa hay không là do bạn quyết định chứ không phải những khiếm khuyết của bản thân.


Tự truyện "Câu chuyện đời tôi"



Để hiểu thêm về bà và cuộc đời của bà, các bạn có thể tìm đọc một số sách đã được dịch và xuất bản sang tiếng Việt, chẳng hạn như "Câu chuyện đời tôi" - dịch giả Nguyễn Thành Nhân, nhà xuất bản Văn hóa - Văn nghệ; "Quý cô nóng nảy" - dịch giả Thu Giang, nhà xuất bản Dân trí; "Bà đại sứ" - dịch giả Nguyễn Thanh Ngọc, nhà xuất bản Phụ nữ.


Để kết thúc bài viết này, chúng tôi xin gửi tới các bạn một đoạn trong bản dịch của cố dịch giả Nguyễn Thành Nhân.


Cho tới thời điểm bị căn bệnh tước đi thị lực và thính lực, tôi sống trong một ngôi nhà bé xíu gồm một căn phòng rộng hình vuông và một căn phòng nhỏ dành cho những người giúp việc. Tập quán ở miền Nam là cất một ngôi nhà nhỏ gần ngôi nhà chính như là một phần phụ để sử dụng những khi cần thiết. Cha tôi đã xây một cái nhà như thế sau Nội chiến, và khi ông cưới mẹ tôi, họ chuyển sang sống ở đó. Nó bị che phủ hoàn toàn bởi những cây nho, hồng dây và kim ngân hoa. Nhìn từ ngoài vườn, trông nó giống như một lùm cây. Cái cổng vòm nhỏ bị che khuất khỏi tầm mắt bởi một lớp hồng vàng và dây khúc khắc miền Nam. Nó là nơi tới lui thăm viếng ưa thích của lũ chim ruồi và lũ ong. 


Thái ấp Keller, nơi gia đình sinh sống, cách lùm cây hoa hồng nhỏ của chúng tôi vài bước. Nó được gọi là “Thường xuân xanh” vì ngôi nhà và những cây cối, rào giậu  xung quanh bị che phủ bởi những dây thường xuân xinh đẹp của nước Anh. Khu vườn kiểu cổ của thái ấp là thiên đường tuổi nhỏ của tôi.

Thậm chí trong những ngày trước khi cô giáo của tôi tới, tôi thường dò dẫm men theo những bờ rào vuông làm bằng gỗ hoàng dương cứng, và, được dẫn dắt bởi khứu giác, thường tìm ra những đóa hoa cúc tím và huệ tây nở đầu tiên. Cũng ở đó, sau một cơn tức tối, tôi tới để tìm nguồn an ủi và giấu gương mặt nóng bừng sau lớp lá và cỏ mát rượi. Thật là một niềm vui to lớn biết bao khi đánh mất bản thân trong khu vườn hoa cỏ đó, lang thang thỏa thích từ nơi này sang nơi khác, cho tới khi, đột ngột đứng trước một dây nho xinh đẹp, tôi nhận ra nó nhờ những chiếc lá và những bông hoa của nó, và biết nó chính là dây nho che phủ ngôi nhà nghỉ mùa hè xiêu vẹo ở đầu kia khu vườn! Cũng tại đây, là những cây ông lão lòng thòng, những cụm hoa nhài ủ rũ, và một vài loại hoa quý hiếm gọi là hoa huệ bướm, vì những cánh hoa mong manh của chúng giống như những cánh bướm. Nhưng những bụi hoa hồng là thứ đáng yêu hơn hết. Tôi chưa bao giờ tìm thấy trong những ngôi nhà kính ở miền Bắc những bụi hoa hồng khiến cho tâm hồn mãn nguyện như những dây hồng ở ngôi nhà miền Nam của tôi. Chúng thường treo lơ lửng thành chùm trên vòm cổng, phủ đầy bầu không khí một mùi thơm không hề bị làm cho uế tạp bởi bất kỳ thứ mùi trần tục nào; và vào những sớm mai, tắm mình trong sương, có cảm giác chúng rất mềm mại, thanh khiết, tôi không thể không tự hỏi không biết trông chúng có giống như những đóa lan nhật quang ở khu vườn của Thượng đế hay chăng.

Thời kỳ đầu của đời tôi đơn giản và khá giống với mọi cuộc đời nhỏ bé khác. Tôi đến, tôi nhìn thấy, tôi ngự trị, như đứa bé đầu tiên trong gia đình luôn làm thế. Có một mức độ thảo luận nhiều đến bất thường về việc đặt tên cho tôi. Đứa bé đầu tiên trong gia đình không thể được đặt tên một cách khinh suất, mọi người đều nhấn mạnh tới điểm đó. Cha tôi đề nghị cái tên Mildred Campbell, theo tên của một vị tổ tiên mà ông vô cùng quý trọng, và ông khước từ không tham dự thêm nữa trong cuộc thảo luận. Mẹ tôi xử lý vấn đề bằng cách bảo rằng bà ước muốn đặt tên tôi theo mẹ của mình, vốn có tên hồi con gái là Helen Everett. Nhưng trong niềm phấn khích khi bế tôi tới nhà thờ, cha tôi đã quên khuấy mất cái tên trên đường, rất ư tự nhiên, vì đó là một cái tên mà ông đã khước từ không bàn thảo tới nữa. Khi vị mục sư hỏi tên đứa bé, ông chỉ nhớ rằng mọi người đã quyết định đặt tên tôi theo tên của bà ngoại tôi, và ông gán cho bà cái tên là Helen Adams.

Tôi nghe kể rằng khi vẫn còn mặc những cái váy dài, tôi đã cho thấy nhiều dấu hiệu của một thiên hướng háo thắng, thích tự khẳng định bản thân. Mọi thứ tôi thấy người khác thực hiện tôi khăng khăng một mực làm theo. Mới sáu tháng tôi đã có thể líu lo “Xin chào” (Howd’ye), và một hôm tôi thu hút sự chú ý của mọi người bằng cách nói “Trà, trà trà” (Tea, tea, tea) rất rõ ràng. Ngay cả sau cơn bệnh, tôi vẫn nhớ một trong những từ mà tôi đã học được trong mấy tháng đầu đời đó. Nó là từ “nước” (water) và tôi tiếp tục cố thốt ra từ đó sau khi mọi từ ngữ khác đều mất đi. Tôi chỉ thôi thốt lên tiếng “wah, wah” khi tôi học được cách đánh vần từ đó.

Cha mẹ bảo rằng tôi biết đi vào hôm tôi lên một tuổi. Mẹ tôi vừa mới bế tôi ra khỏi bồn tắm và đang giữ tôi trên đùi thì đột nhiên tôi bị thu hút bởi bóng của những chiếc lá đang nhảy múa chập chờn trong ánh nắng đổ xuống sàn nhà bằng phẳng. Tôi chuồi khỏi đùi mẹ và hầu như chạy về phía chúng. Cơn bốc đồng biến mất, tôi ngã lăn ra và khóc đòi mẹ tôi bế tôi lên. Những ngày hạnh phúc đó không kéo dài. Một mùa xuân ngắn ngủi, tràn đầy âm nhạc với tiếng hót líu lo của lũ chim cổ đỏ và chim ruồi, một mùa hè đầy quả ngọt và hoa hồng, một mùa thu trải sắc vàng và đỏ thẫm ra và để lại những quà tặng của chúng dưới chân của một đứa bé náo nức, vui sướng. Thế rồi, vào tháng Ba ảm đạm, căn bệnh tới, khép kín đôi mắt và đôi tai của tôi, dìm tôi vào cõi vô thức của một đứa bé sơ sinh. Người ta gọi đó là chứng sung huyết dạ dày và não cấp tính. Vị bác sĩ nghĩ là tôi không sống được. Tuy nhiên, một sớm mai kia, cơn sốt rời khỏi tôi cũng đột ngột và bí ẩn như khi nó tới. Sáng hôm đó là một niềm hân hoan to lớn của gia đình, nhưng không ai, ngay cả vị bác sĩ, biết rằng tôi sẽ không bao giờ nhìn thấy hay nghe thấy được nữa.

Tôi tưởng chừng như vẫn còn những hồi ức rối rắm về cơn bệnh đó. Tôi nhớ nhất sự dịu dàng khi mẹ tôi cố xoa dịu tôi trong những giờ tôi thức giấc, cáu gắt và đau đớn, và sự thống khổ, hoang mang khi tôi choàng tỉnh sau một giấc ngủ ngắn chập chờn và hướng đôi mắt khô khốc, nóng rực vào bức tường, tránh khỏi ánh sáng một thời yêu thích, ngày càng mờ mịt hơn khi đến với tôi. Nhưng, ngoài những ký ức thoáng qua này, nếu quả thật chúng là những ký ức, mọi thứ dường như không có thật, giống như một cơn ác mộng. Dần dần tôi trở nên quen với sự thinh lặng và bóng tối vây quanh tôi và quên rằng trước kia mọi thứ từng khác hẳn, mãi tới khi cô ấy tới, cô giáo của tôi – người đã giải thoát cho linh hồn tôi. Nhưng trong mười chín tháng đầu tiên của đời mình, tôi đã thoáng nhìn thấy những cánh đồng xanh rộng lớn, một bầu trời trong sáng, những cây cối và bông hoa mà bóng tối sau đó không thể hoàn toàn xóa bỏ. Nếu chúng ta đã từng nhìn thấy, “ngày đó là của chúng ta, và những gì ngày ấy đã phô bày là của chúng ta.”



Tổng hợp từ các nguồn: 

https://hoilhpn.org.vn/

https://www.elle.vn/

https://nhanduset.blogspot.com/

Comments

Popular posts from this blog

Vui hát Giáng Sinh!

Vui hát Giáng sinh 2024!

Vui hát Giáng sinh (Video & Ảnh lớp)